Hướng tới xuất khẩu gạo bền vững

Trái với điệp khúc “lượng tăng, giá giảm” như nhiều năm trước, hoạt động xuất khẩu (XK) gạo đã liên tục ghi nh...

Giá và lượng gạo XK liên tục tăng

Theo báo cáo của Bộ Công thương, thời gian qua, XK gạo đã đạt kết quả tích cực cả về lượng, giá cũng như cơ cấu, chủng loại. Cụ thể, năm 2017 XK gạo đạt 5,82 triệu tấn, tăng 21% so năm 2016, trị giá đạt khoảng 2,63 tỷ USD, tăng 22%. Giá tại cảng giao hàng (FOB) bình quân XK ở mức 452,6 USD/tấn, tăng 0,8% so giá XK năm 2016. Tăng trưởng tiếp tục được duy trì trong suốt chín tháng đầu năm 2018. Tính đến hết ngày 15-9, XK gạo đạt 4,73 triệu tấn, tăng 9,3% so cùng kỳ năm 2017, trị giá đạt 2,38 tỷ USD, tăng 24,8%. Giá FOB XK bình quân đạt khoảng 503,3 USD/tấn, tăng 62,4 USD/tấn so cùng kỳ năm trước. Về cơ cấu, chủng loại gạo XK đã chuyển dịch tích cực, tăng dần gạo trắng chất lượng trung bình và cao, gạo thơm, giảm dần gạo trắng chất lượng thấp. Hiện nay, XK gạo của Việt Nam vẫn tập trung chủ yếu ở châu Á với tỷ trọng chiếm tới 60%. Dự kiến, đến năm 2030, Việt Nam muốn thay đổi tỷ trọng XK sang các TT như: châu Á còn 50%, châu Phi 25%, châu Mỹ 10%, châu Âu 6% và khu vực khác 9%.

Thứ trưởng Công thương Đỗ Thắng Hải cho biết, lượng gạo Việt Nam XK hiện chiếm khoảng 15% tổng lượng gạo XK toàn thế giới. Gạo Việt Nam hiện đã có mặt ở gần 150 quốc gia và vùng lãnh thổ với các sản phẩm khá đa dạng như: gạo hạt dài, gạo hạt ngắn, gạo thơm, gạo đồ, gạo hữu cơ… Đáng chú ý, gạo Việt bước đầu đã thâm nhập được vào những TT có yêu cầu cao như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, EU…

Thứ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Trần Thanh Nam thông tin thêm, từ cuối năm 2017 đến nay, giá gạo XK liên tục tăng. Ngoài nguyên nhân nhu cầu gạo thế giới tăng còn một lý do quan trọng, đó là việc cơ cấu lại sản xuất lúa và XK gạo theo hướng giảm gạo phẩm cấp trung bình và thấp, tăng mạnh gạo chất lượng cao, gạo thơm, gạo đặc sản trong những năm qua. Điểm tích cực nhất trong sản xuất, XK gạo là tỷ lệ cơ giới hóa tăng cao, đặc biệt tại vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thu hoạch bằng máy gặt đập liên hợp đến nay đã đạt 100% diện tích lúa gieo cấy. Hệ thống nhà máy chế biến phát triển và có đủ năng lực phục vụ XK, đáp ứng được các TT yêu cầu cao về chất lượng gạo XK.

Khó khăn, thách thức còn nhiều

Kết quả XK những tháng đầu năm khả quan nhưng nhiều chuyên gia dự báo, kim ngạch XK gạo thời gian tới sẽ gặp không ít khó khăn khi phải cạnh tranh gay gắt với các sản phẩm gạo Thái-lan, Campuchia… Ở các TT XK, gạo nếp bị áp thuế đến 50% khi XK vào TT Trung Quốc dẫn đến khó khăn trong việc tiếp cận TT. XK gạo sang Indonesia trong những tháng cuối năm 2018 cũng được dự báo chững lại khi Chính phủ Indonesia vừa hủy quyết định nhập khẩu (NK) 600.000 tấn gạo, sau khi Bộ Nông nghiệp Indonesia dự báo sản lượng gạo năm nay đạt 83 triệu tấn, tăng 2 triệu tấn so năm ngoái. TT Philippines có quyết định mở thầu vào trung tuần tháng 10, nhưng chủ yếu NK các sản phẩm gạo phẩm cấp thấp.

Thứ trưởng Trần Thanh Nam nêu rõ, sản xuất, XK gạo Việt Nam đã và đang đối mặt không ít thách thức. Thứ nhất, Việt Nam là một trong năm quốc gia bị ảnh hưởng lớn nhất bởi biến đổi khí hậu. Thứ hai, cạnh tranh toàn cầu trong sản xuất và kinh doanh lúa gạo ngày càng gia tăng, đặc biệt cạnh tranh về chất lượng và giá trị. Thứ ba, cơ sở hạ tầng sản xuất lúa gạo còn hạn chế, nhất là vấn đề logistic… cũng là những rào cản.

Ngoài ra, thời gian gần đây, không ít rào cản, nhất là hàng rào phi thuế quan đã xuất hiện, tác động không nhỏ tới XK gạo của Việt Nam. Điển hình là câu chuyện TT XK gạo hàng đầu của Việt Nam là Trung Quốc đã duy trì chế độ NK chặt chẽ thông qua hạn ngạch, kiểm tra an toàn thực phẩm nghiêm ngặt. Không chỉ Trung Quốc, xu thế này cũng được các nước khác áp dụng.

Thứ trưởng Đỗ Thắng Hải cũng đánh giá, năng lực tiếp cận, thâm nhập TT, marketing, đàm phán ký kết thực hiện hợp đồng, xử lý tranh chấp thương mại quốc tế, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các thương nhân kinh doanh, XK gạo còn hạn chế. Ngoài ra, các sản phẩm thương hiệu gạo Việt Nam vẫn chưa được phần lớn người tiêu dùng (NTD) cuối cùng tại các nước biết đến. NTD cuối cùng chủ yếu biết đến gạo Việt Nam thông qua một thương hiệu khác hoặc sản phẩm gạo đã được chế biến. Đây là một số điểm ngành lúa gạo Việt Nam cần tiếp tục khắc phục và hoàn thiện trong thời gian tới.

Theo Phó Cục trưởng XNK Trần Thanh Hải, điều này tạo động lực giúp DN Việt Nam phải cọ xát, nâng cao sức cạnh tranh so DN tại các quốc gia “đối thủ” như: Thái-lan, Ấn Độ, Bangladesh, Myanmar… Là cơ quan quản lý nhà nước, cùng với việc đăng cai tổ chức Hội nghị gạo thế giới lần thứ 10, Bộ Công thương cũng tổ chức Hội nghị quốc tế mặt hàng gạo Việt Nam để giới thiệu hạt gạo Việt Nam đến bạn bè quốc tế, qua đó tạo cơ hội kết nối cho DN Việt Nam.

Các doanh nghiệp tập trung phát triển các sản phẩm gạo có giá trị gia tăng cao. Ảnh: ĐOÀN VŨ

Tạo điều kiện tốt nhất cho XK gạo

Theo Chiến lược phát triển TT XK gạo của Việt Nam giai đoạn 2017 - 2020, định hướng đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, mục tiêu đặt ra là: Phấn đấu điều chỉnh giảm dần lượng gạo hàng hóa XK nhưng giữ ổn định và tăng trị giá XK gạo; chuyển dịch cơ cấu mặt hàng XK; tăng tỷ lệ gạo XK trực tiếp và mang thương hiệu gạo Việt Nam. Cơ cấu TT điều chỉnh phù hợp mục tiêu chuyển dịch cơ cấu TT XK và xu thế diễn biến TT gạo thế giới. Cụ thể, phấn đấu vào năm 2030, tỷ trọng gạo trắng thường chỉ chiếm khoảng 25%, trong đó gạo phẩm cấp thấp và trung bình không vượt quá 10% tổng lượng gạo XK; gạo thơm, gạo đặc sản, gạo japonica chiếm khoảng 40%, gạo nếp chiếm khoảng 25%; tăng dần tỷ trọng các sản phẩm gạo có giá trị gia tăng cao như: gạo tăng cường vi chất dinh dưỡng, gạo đồ, gạo hữu cơ, bột gạo, sản phẩm chế biến từ gạo, cám gạo và một số phụ phẩm khác từ lúa gạo (khoảng hơn 10%).

Chiến lược này nêu rõ định hướng phát triển, sản xuất, XK gạo thời gian tới là tập trung sản xuất theo quy trình sạch, gạo hữu cơ, đa dạng hóa các sản phẩm chế biến từ lúa gạo; tổ chức sản xuất theo quy trình chuẩn, đồng bộ từ khâu giống, canh tác, thu hoạch, chế biến, đóng gói; xây dựng các vùng chuyên canh sản xuất lúa gạo hàng hóa có chất lượng; xây dựng uy tín, thương hiệu hạt gạo Việt Nam trên TT thế giới. Tận dụng lợi thế cạnh tranh để củng cố vị thế và khai thác hiệu quả các TT gần, TT truyền thống, trọng điểm có nhu cầu NK gạo phù hợp điều kiện sản xuất hiện tại. Phát triển các TT mới, TT tiềm năng, tăng tỷ trọng các TT NK gạo chất lượng, giá trị gia tăng cao; từng bước giảm tỷ trọng các TT NK gạo có chất lượng, giá trị gia tăng và hiệu quả thấp, không ổn định. Tận dụng tốt các ngách TT phù hợp tại tất cả các khu vực TT.

Về vấn đề này, Thứ trưởng Trần Thanh Nam cho biết, Bộ NN&PTNT sẽ tập trung đầu tư nghiên cứu, phát triển giống lúa có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu nội tiêu và XK; xây dựng vùng sản xuất lúa hàng hóa trọng điểm nhằm bảo đảm an ninh lương thực và XK, tập trung nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng đồng bộ trong vùng sản xuất. Bên cạnh đó, đẩy mạnh công tác chế biến, bảo quản, sơ chế và sản xuất chuyên sâu sau gạo; nâng thương hiệu gạo Việt Nam ở tầm quốc tế nhằm nâng cao giá trị lúa gạo. Đặc biệt, khâu xây dựng uy tín, thương hiệu gạo Việt Nam trên TT thế giới sẽ được coi trọng hơn nữa.

Thực tế, các DN như: Lộc Trời, Vinafood I, Vinafood II, Tấn Vương… đang tập trung xây dựng thương hiệu gạo. Đơn cử, Tập đoàn Lộc Trời đang đưa ra TT một sản phẩm mới là gạo Vibigaba, loại gạo thực phẩm bổ sung, được Bộ Y tế công nhận chất lượng và thành phần tương tự một loại thực phẩm chức năng. Hay Công ty CP Tập đoàn Tân Long đang đầu tư mạnh cho gạo Japonica hạt tròn, chuyên XK sang Hàn Quốc với giá rất ổn định. Những hướng đi này đã giúp đa dạng hóa TT, giúp XK gạo bền vững hơn.

Cùng với việc đẩy mạnh tiêu thụ mặt hàng này ở TT trong nước, cơ hội để XK cũng tăng cao khi mới đây Chính phủ đã ban hành Nghị định 107 về kinh doanh XK gạo, giúp mở rộng cơ hội XK các sản phẩm gạo hữu cơ, gạo vi lượng… Tuy tỷ suất lợi nhuận trên gạo đối với các sản phẩm này có thể không quá cao nhưng việc đẩy mạnh XK mặt hàng đặc trưng sẽ giúp tăng vị thế gạo Việt Nam trên TT quốc tế.

Theo Nhân dân