(Viện mía đường) - Trong thời gian gần đây, ngành mía đường Việt Nam có mấy sự kiện đáng chú ý, đó là việc mua bán và sáp nhập (M&A) thành công của một số doanh nghiệp mía đường thuộc Tập đoàn Thành Thành Công; việc chuẩn bị hội nhập thị trường quốc tế theo cam kết WTO, AFTA của các doanh nghiệp mía đường Việt Nam; hay những tranh cãi xung quanh vấn đề nhập khẩu 30.000 tấn (năm 2012) và 50.000 tấn (năm 2014) của Hoàng Anh Gia Lai tại Lào,…
Bình luận về các sự kiện này, có nhiều quan điểm rất khác nhau, thậm chí dẫn tới những cuộc tranh luận rất gay gắt chưa biết bao giờ mới chấm dứt, khiến dư luận không biết đâu là đúng, đâu là sai, nhất là đối với những độc giả chưa từng làm việc trong ngành mía đường, chưa có nhiều thông tin hay hiểu biết đầy đủ về ngành mía đường Việt Nam và những vấn đề đặc thù của nó. Theo dõi các sự kiện này, chúng tôi lại nhớ đến 1 báo cáo tham luận của Ông Nguyễn Bá Chủ - Nguyên Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Mía Đường Thành Thành Công Tây Ninh (Công ty CP Bourbon Tây Ninh cũ) tại Hội nghị về phát triển bền vững do VietCapital tổ chức từ 23-24/10/2012. Có thể các thông tin trong bài viết đến nay đã là cũ, nhưng những vấn đề, đề xuất, kiến nghị mà bài viết này đã nêu ra phần nào đã được kiểm chứng tính đúng đắn, tất yếu trong thực tiễn thời gian vừa qua và vẫn còn mang ý nghĩa thời sự trong thời điểm hiện nay cũng như thời gian tới. Chúng tôi xin phép tác giả được đăng lại toàn văn bài tham luận này để Quý độc giả cùng tham khảo.

Ông Nguyễn Bá Chủ
Nguyên Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Mía Đường Thành Thành Công Tây Ninh (TTCS)
1. Làm thế nào để ngành mía đường Việt Nam có thể đáp ứng được nhu cầu nội địa ngày càng tăng

Hình 1. Nhu cầu tiêu thụ và sản lượng đường của Việt Nam (Nguồn: LMC, 2012)
Theo dự báo, nhu cầu tiêu thụ đường nội địa của Việt Nam sẽ tăng lên 1,65 triệu tấn (so với mức 1,4 triệu tấn năm 2011, trong đó có tính cả khoảng 150.000 tấn đường xuất khẩu sang Trung Quốc hàng năm). Tuy nhiên, qua kết quả điều tra khảo sát và đánh giá của Công ty tư vấn LMC của Anh (2012) cho thấy, trong các vùng mía trọng điểm của cả nước gồm miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam bộ và Đồng bằng Sông cửu Long, có nhiều lý do (chữ đường thấp, cạnh tranh cây trồng khốc liệt, có áp dụng cơ giới hóa, cơ cấu phân chia lợi nhuận không hợp lý, liên kết sản xuất – tiêu thụ lỏng lẻo,…) để tin rằng sản xuất mía đường ở vùng Đồng bằng Sông cửu Long trong thời gian tới sẽ bị suy giảm mạnh. Do vậy, đến 2015, để đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ nội địa, cần phải nâng cao sản lượng đường ở các vùng khác để bù đắp phần sản lượng đường bị thiếu hụt khoảng 400.000 tấn. Tuy nhiên trong các vùng còn lại, cũng theo đánh giá của LMC (2012), chỉ còn miền Trung là còn tiềm năng để nâng cao sản lượng đường. Bất chấp việc năng suất mía bình quân ở vùng này hiện nay còn ở mức thấp, lại cách xa trung tâm tiêu thụ đường (miền Nam), giá đường bán ra thấp nhất cả nước, nhưng bù lại mía ở vùng này có chất lượng cao nhất, chi phí nhân công rẻ nhất, cạnh tranh cây trồng thấp nhất, quỹ đất còn nhiều và đặc biệt là tiềm năng để nâng năng suất, chất lượng lên mức cao nhất nước còn chưa được khai thác hết.
Để nâng cao sản lượng đường ở miền Trung, góp phần bổ sung vào tổng sản lượng đường của cả nước, nhằm đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ đường trong nước (và một phần xuất khẩu) đến năm 2015, cần thiết phải thực hiện được một số vấn đề sau:
- Nâng cao năng suất mía bình quân ở miền Trung từ mức 53 tấn/ha hiện nay lên đạt 57 tấn/ha vào năm 2015. Điều này là hoàn toàn khả thi vì tốc độ nâng cao năng suất mía trong vùng mấy năm gần đây đạt đều trung bình hơn 2%/năm.
- Mở rộng diện tích vùng nguyên liệu mía ở miền Trung lên thêm khoảng 34%, tương đương 50.000 ha đến 2015. Phần diện tích tăng thêm này không ảnh hưởng đến mục tiêu duy trì diện tích mía của cả nước ở mức 300.000 ha. Như vậy hàng năm phải mở rộng thêm khoảng 8% diện tích, điều này là hoàn toàn khả thi bởi hiện nay ít nhất có khoảng 20% diện tích trồng sắn kém hiệu quả có thể chuyển đổi sang trồng mía. Ngoài ra do lợi nhuận sản xuất mía đường ở vùng nay cao hơn các vùng khác trên cả nước nên hiện nay hầu các nhà máy đường trong vùng đều có dự án nâng cao công suất chế biến và đầu tư mở rộng vùng nguyên liệu.
Bảng 1. Nhu cầu tiêu thụ đường trong nước đến 2015 và giải pháp đáp ứng
Chỉ tiêu
|
Năm 2011
|
Năm 2015
|
% tăng (2011-2015)
|
% tăng/năm
|
Nhu cầu:
- Tiêu thụ trong nước
- Xuất khẩu
|
1,40
0,15
|
1,65
0,15
|
18%
0%
|
4%
0%
|
Sản lượng đường
ở miền Trung:
- Vùng Bắc Trung bộ
- Duyên hải miền Trung
|
0,62
0,80
|
0,62
1,18
|
0%
49%
|
0%
10%
|
Nhu cầu nhập khẩu
|
0,14
|
0,00
|
|
|
Các chỉ tiêu cần nâng
lên ở miền Trung:
- Diện tích (ngàn ha)
- Năng suất mía (tấn/ha)
- Sản lượng mía (triệu tấn)
- Sản lượng đường (triệu tấn)
|
147
53
7,8
0,8
|
202
57
11,6
1,2
|
37%
8%
49%
49%
|
8%
2%
10%
10%
|
2. Làm thế nào để ngành mía đường Việt Nam xây dựng được thương hiệu sản phẩm có tính cạnh tranh cao
Thương hiệu là dấu hiệu nhận biết sản phẩm của một nhà sản xuất, quốc gia này với các sản phẩm khác. Đây là một cơ sở quan trọng để người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm và chi phối hành vi tiêu dùng của họ. Các sản phẩm cùng thương hiệu, sản xuất theo cùng một tiêu chuẩn nhưng có xuất xứ khác nhau thì giá trị cũng như sự đón nhận của người tiêu dùng là không giống nhau. Điều này cho thấy việc xây dựng thương hiệu tập thể là vô cùng quan trọng và ngành mía đường cũng không nằm ngoài quy luật này.
Trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp ía đường đã triển khai xây dựng và phát triển các nhãn hiệu, thương hiệu sản phẩm riêng của mình, nhưng đến nay những thương hiệu đã được tạo lập của ngành mía đường rất ít và khá mờ nhạt. Các thương hiệu đường được biết đến nhiều nhất ở Việt Nam hiện nay là Đường Biên Hòa, Đường Bourbon Tây Ninh, …. Đây là sản phẩm đường có chất lượng hàng đầu Việt Nam hiện nay, được các doanh nghiệp tiêu thụ đường lớn như Coca Cola, Pepsi, Tân Hiệp Phát, Vinamilk… tiêu thụ. Thế nhưng, hiện nay các sản phẩm đường thương hiệu nêu trên của Việt Nam cũng chủ yếu được biết tới ở thị trường trong nước mà ít được các nước trong khu vực và thế giới biết đến.
Có thể nói trước đây, trong điều kiện Việt Nam chưa hội nhập hoàn toàn vào thị trường khu vực và thế giới, sản phẩm đường của Việt Nam chủ yếu được định hướng cung cấp cho thị trường tiêu thụ trong nước. Tuy nhiên, trong tương lai gần (năm 2015 hoặc chậm nhất là 2018 theo các cam kết WTO và AFTA), khi thị trường đường liên thông hoàn toàn (thuế nhập khẩu về 0%) thì việc các sản phẩm có thương hiệu mạnh sẽ sức cạnh tranh và khả năng sống sót cao hơn trong môi trường cạnh tranh khu vực và thế giới. Chính vì vậy, trong quy hoạch phát triển ngành mía đường Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào 2007 định hướng phát triển ngành mía đường Việt Nam thành một ngành sản xuất hàng hóa, có thương hiệu uy tín, có khả năng cạnh tranh cao trong hội nhập kinh tế quốc tế. Như vậy, ngay từ bây giờ, chúng ta cần xây dựng thương hiệu và tiêu chuẩn chất lượng cho một số sản phẩm chủ lực, có sức canh tranh cao đối với các sản phẩm nhập khẩu tương tự, đáp ứng yêu cầu về chất lượng, mẫu mã và quy cách sản phẩm đường của các nhà tiêu thụ ở trong nước, sau đó dần dần hướng tới xuất khẩu. Đây là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng và phát triển thương hiệu mía đường Việt Nam trong thời gian tới.
Đó là đối với các thương hiệu riêng, còn việc xây dựng thương hiệu tập thể cho ngành mía đường Việt Nam gần như chưa được ai quan tâm và đang phải đối diện với rất nhiều khó khăn do các doanh nghiệp chưa thật sự thấy được những lợi ích mang lại nếu xây dựng được thương hiệu tập thể. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp còn lo ngại thương hiệu tập thể sẽ lấn át thương hiệu riêng, khi đó thương hiệu doanh nghiệp không còn gì là nổi bật nên việc đẩy mạnh hoạt động này còn chưa thực sự rộng rãi. Chính vì vậy, hiện nay nhiều doanh nghiệp mía đường chỉ nghĩ đến những lợi ích trước mắt mà sẵn sàng chào bán sản phẩm với giá rẻ, chất lượng thấp, không ổn định nhằm cạnh tranh về giá mà chưa nghĩ đến việc liên kết với nhau để xây dựng một thương hiệu tập thể gắn với chất lượng sản phẩm tốt, ổn định, thống nhất và phù hợp với tiêu chuẩn chung của thế giới với giá cả phải chăng. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp cũng chỉ chú trọng phát triển thương hiệu riêng mà chưa nghĩ đến việc cần có một thương hiệu quốc gia.
Theo nhiều chuyên gia ngành mía đường, để xây dựng được một thương hiệu tập thể xứng tầm cần có một chiến lược lâu dài và phù hợp với tình hình phát triển thực tế tại Việt Nam. Trong đó, việc làm đầu tiên là phải tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp về việc cần phải xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm mía đường. Bên cạnh đó, việc xác lập tên thương hiệu để nhanh chóng đăng ký bảo hộ tại thị trường trong nước cũng như các thị trường nhập khẩu tương lai, bởi việc chậm trễ có thể làm mất thương hiệu tại một số quốc gia như trường hợp của Nước mắm Phú Quốc hoặc nhiều thương hiệu Việt Nam khác trên thị trường thế giới.
Về lâu dài, một thương hiệu tập thể sau khi được xây dựng muốn tồn tại và ngày càng được nhiều người tiêu dùng nhận biết nhằm nâng cao giá trị thương hiệu thì cần phải có một cơ chế quản lý và khai thác có hiệu quả. Muốn làm được điều này cần phải có sự tham gia, hỗ trợ của cơ quan quản lý nhà nước cấp trung ương và địa phương bên cạnh sự nỗ lực các thành viên là chủ sở hữu thương hiệu tập thể. Trong đó, Cục Chế biến Thương mại Nông Lâm Thủy sản và Nghề muối (thuộc Bộ NN-PTNT) là cơ quan đầu mối trong việc vận động doanh nghiệp, hỗ trợ xây dựng quy chế quản lý và khai thác thương hiệu tập thể; đồng thời đứng ra kêu gọi tài trợ kinh phí từ nhiều nguồn khác nhau để triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học nhằm nhanh chóng xây dựng và phát triển thương hiệu tập thể cho ngành mía đường Việt Nam.
3. Cần làm điều gì để phát triển ngành mía đường Việt Nam ổn định, bền vững và hiệu quả
Để phát triển ngành mía đường Việt Nam ổn định, bền vững và hiệu quả, theo tôi cần phải thực hiện một số giải pháp như sau:
a) Thiết lập cơ chế phân bổ lợi ích rõ ràng, minh bạch giữa người trồng mía và nhà máy chế biến đường:
Trước năm 1998, hàng năm Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, cụ thể là Ban điều hành Chương trình mía đường thuộc Cục Chế biến Nông Lâm sản đều ban hành giá sàn thu mua mía nguyên liệu. Sau năm 1998, việc xác định giá mía hoàn toàn giao cho các nhà máy đường tự định đoạt trên cơ sở khuyến cáo của Nhà nước là giá mua 1 tấn mía quy về 10 CCS tối thiểu phải bằng 60 kg đường trắng. Như vậy có thể hiểu ở Việt Nam nông dân được nhận bằng 60 kg đường/tấn mía (nhưng ai giám sát?). Trong khi đó ở Úc là 66,6%, Barbados 77,5%, Mauritus 74% từ đường và rỉ mật; ở Thái Lan là 70%, Dominic là 65 kg đường/tấn mía và 50% phụ phẩm, Indonesia là 62% đường và 42% rỉ mật. Giá đường luôn lên xuống thất thường, tỷ lệ phân bổ lợi ích trong chuỗi giá trị mía đường không ổn định và ở các vùng cũng không giống nhau (Bảng 2), lại bị chi phối bởi nhiều yếu tố kém bền vững, do đó cả nông dân và nhà máy đường đều chưa yên tâm sản xuất vì lợi ích không rõ ràng và không được đảm bảo. Chính vì vậy đòi hỏi Chính phủ cần phải sớm giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn xây dựng cơ chế phân chia thu nhập hợp lý, rõ ràng, minh bạch giữa nông dân và nhà máy đường, coi đây là cơ sở, cam kết quan trọng được Pháp luật Nhà nước bảo vệ, nhằm khuyến khích nông dân và nhà máy hợp tác trong việc sản xuất và tiêu thụ mía nguyên liệu ổn định, hiệu quả. Nếu thực hiện được việc này, các nhà máy sẽ luôn được đảm bảo về nguồn nguyên liệu ổn định, tập trung cải tiến quy trình công nghệ, nâng cao công suất và hiệu quả chế biến nhằm gia tăng thêm lợi ích, còn nông dân sẽ yên tâm trong việc trồng mía và đầu tư thâm canh, nâng cao năng suất, chất lượng mía nguyên liệu. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng nên xem xét để từng bước hình thành nên quỹ bình ổn mía đường bằng cách trích một phần lợi nhuận từ hoạt động sản xuất mía nguyên liệu và chế biến đường trên đầu tấn mía và tấn đường sản xuất ra, nhằm tài trợ thường xuyên cho công tác nghiên cứu khoa học cũng như hỗ trợ cho nông dân và nhà máy đường khi thị trường đường trong nước gặp khó khăn, rủi ro khách quan.
Bảng 2. Tỷ lệ phân bổ lợi ích trong chuỗi giá trị mía đường theo vùng ở Việt Nam (2011)
(Nguồn: LMC, 2012)
Đối tượng
|
Miền Trung
|
Tây Nguyên
|
Đông Nam bộ
|
Đồng bằng sông Cửu Long
|
Nông dân
Nhà máy đường
Thương lái/bán lẻ
Chính phủ
|
39%
27%
18%
16%
|
39%
19%
22%
20%
|
47%
13%
21%
19%
|
81%
-21%
21%
19%
|
b) Xây dựng và ban hành cơ chế điều hành, quản lý hiệu quả hạn ngạch về sản xuất, nhập khẩu, xuất khẩu đường trên cơ sở cân đối cung cầu:
Ngày từ khi ra đời Chương trình 1 triệu tấn đường (1995), ngành mía đường đã được xác định là ngành sản xuất đặc thù, không phải là ngành kinh tế vì lợi nhuận tối đa mà là ngành kinh tế - xã hội quan trọng. Tuy nhiên thực tế sản xuất mía đường ở Việt Nam cho thấy đây là ngành kinh tế khá bất ổn, phụ thuộc rất nhiều vào biến động thị trường trong và ngoài nước. Trong đó yếu tố nguyên liệu luôn đóng vai trò qua trọng nhất nhưng lúc thì khủng hoảng thừa, lúc lại thiếu, còn thị trường đường thì luôn bất ổn, lúc cần nhập, lúc cần xuất, tình hình nhập lậu không kiểm soát được. Chính vì vậy, đã đến lúc Việt Nam cần phải cải tiến và thay đổi cơ chế điều hành ngành mía đường theo hướng linh hoạt, kịp thời, công khai và minh bạch hơn nhằm đảm bảo cho ngành và thị trường mía đường phát triển bền vững, hiệu quả. Hiện nay việc quản lý hạn ngạch xuất nhập khẩu đường theo các cam kết WTO và AFTA đều do Bộ Công thương quản lý với mục đích chính là nhằm bình ổn giá cả thị trường trong nước. Tuy nhiên, việc bình ổn giá bằng phương thức này đang tồn tại nhiều vấn đề bất cập. Ví dụ như hiện nay việc áp dụng cơ chế xin - cho trong cấp hạn ngạch nhập khẩu đường vẫn còn tồn tại. Hàng năm danh sách những đơn vị cấp hạn ngạch nhập khẩu đường không được công bố công khai và luôn nằm trong vòng bí mật nên thực tế không biết được doanh nghiệp nào nhập khẩu và sau khi nhập sẽ bán ra để bình ổn thị trường hay tạm nhập, tái xuất để kiếm lợi, gây bất ổn cho thị trường đường trong nước.
c) Cải tổ lại hệ thống tổ chức ngành mía đường Việt Nam và các chính sách pháp luật có liên quan:
Người trồng mía cần thành lập nên Hiệp hội người trồng mía; các nhà máy đường thành lập nên Hiệp hội các nhà máy đường; Chính phủ hoặc Bộ thành lập “Cơ quan điều hành ngành Mía Đường” có sự tham gia của đại diện các Bộ, Ngành liên quan, đại diện Hiệp hội người trồng mía, đại diện Hiệp hội các nhà máy đường và một số chuyên gia các ngành liên quan, kinh phí hoạt động lấy từ chính sự đóng góp của ngành mía đường (trích trên đầu tấn mía và đường sản xuất ra). Đây là công cụ để Chính phủ thực hiện việc hướng dẫn, chỉ đạo, điều hành, kiểm soát ngành mía đường. Song song đó, Nhà nước cần ban hành “Luật Mía Đường” hay 1 văn bản pháp luật tương tự (dưới Luật) cho riêng ngành mía đường. Ngoài ra, để giải quyết công bằng, minh bạch các tranh chấp về chất lượng và khối lượng mía giữa nhà máy đường và nông dân trồng mía trong quan hệ mua bán mía nguyên liệu, trong hệ thống tổ chức mới của ngành mía đường, Nhà nước cần phải thành lập ngay 1 hệ thống các cơ quan độc lập giám sát CCS, khối lượng mía cây và lượng đường bán ra, thường trực tại tất cả các nhà máy đường và do Cơ quan điều hành ngành Mía Đường thống nhất quản lý. Có như vậy chất lượng, khối lượng mía và lượng đường xuất bán ra mới được giám sát chặt chẽ, khi đó nông dân trồng mía, nhà máy đường và ngành mía đường đều có lợi.
d) Khắc phục các hạn chế về quy hoạch, đảm bảo có được 300.000 ha mía ổn định:
Chính quyền các địa phương kết hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần rà soát, khắc phục các hạn chế về quy hoạch, phê duyệt, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển nguyên liệu của tỉnh và vùng nguyên liệu của từng nhà máy phù hợp với quy hoạch phát triển cơ sở chế biến. Nhà nước cũng cần xem xét cho phép các nhà máy đường có đủ điều kiện mở rộng vùng nguyên liệu hoặc nâng cao sản lượng mía được tiếp tục đầu tư nâng cao, mở rộng công suất, nhưng cũng kiên quyết buộc sáp nhập hoặc giải thể đối với các nhà máy có công suất thấp, hoạt động kém hiệu quả.
e) Xây dựng các vùng mía nguyên liệu tập trung lớn, ổn định, hiệu quả:
Thực hiện các giải pháp đồng bộ về giống, kỹ thuật thâm canh, đầu tư cơ sở hạ tầng, áp dụng cơ giới hóa… để tăng nhanh năng suất, chất lượng mía. Thực hiện đúng theo phương châm: “Giống là tiền đề, nước, phân là cơ sở, chăm sóc là quyết định”.
f) Tăng cường đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học và khuyến nông:
Trong thời giain tới, Nhà nước cần tiếp tục đổi mới, sắp xếp, tổ chức lại hệ thống các cơ quan nghiên cứu khoa học chuyên ngành mía đường cho phù hợp, nhằm phát huy hiệu quả tối đa các nguồn lực hiện có. Song song đó Nhà nước cũng cần tăng cường công tác khuyến nông, hỗ trợ trực tiếp cho nông dân trồng mía (hợp lệ theo quy định của WTO). Đồng thời ngành mía đường cũng cần phải nâng cao hơn nữa vai trò đầu tàu của các nhà máy đường (công nghiệp nâng nông nghiệp đi lên) trong lĩnh vực nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ và đẩy mạnh công tác khuyến nô thông qua việc nhà máy bỏ vốn đầu tư hình thành và đảm nhận các dịch vụ cung ứng vật tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giống, cơ giới hóa canh tác hoàn toàn,… cho người nông dân, bởi chỉ có các nhà máy đường mới có điều kiện để đảm nhận nhữn dịch vụ này, còn người nông dân thì đa số là không thể.
Viện mía đường